Khảo sát sự hài lòng và cải thiện kiến thức của bệnh nhân đái tháo đường sau chương trình tư vấn cá thể

Từ khóa

tư vấn cá thể đái tháo đường
giáo dục đái tháo đường
điều dưỡng tư vấn individualized counseling diabetes
diabetic education
education nurse

Ngôn ngữ sử dụng

Cách trích dẫn

Mai, T. T., & Nguyễn, T. K. N. . (2021). Khảo sát sự hài lòng và cải thiện kiến thức của bệnh nhân đái tháo đường sau chương trình tư vấn cá thể. Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology, (45), 19-23. https://doi.org/10.47122/vjde.2020.45.3

Tóm tắt

Đặt vấn đề: Tư vấn giáo dục cá thể đái tháo đường có vai trò nhất định độc lập với phương pháp tư cộng đồng hoặc tư vấn nhóm nhỏ. Khoa Nội tiết bệnh viện Nhân dân 115 đã triển khai chương trình Góc tư vấn nhằm cá nhân hóa tư vấn và giáo dục cho bệnh nhân đái tháo đường theo từng chủ đề cụ thể. Mục tiêu: Nghiên cứu được tiến hành để khảo sát sự cải thiện kiến thức và sự hài lòng của người bệnh đái tháo đường sau chương trình tư vấn và giáo dục cá thể. Phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân nội trú và ngoại trú nhập viện sẽ được sàng lọc để đưa vào nghiên cứu khi có chỉ định tư vấn từ các bác sĩ. Có 4 chủ đề chính được lựa chọn gồm: (1) Dinh dưỡng đái tháo đường, (2) Xử trí hạ đường huyết, (3) Hướng dẫn thay băng vết thương tại nhà và (4) Hướng dẫn tiêm insulin. Một điều dưỡng đã được huấn luyện về tư vấn và giáo dục sẽ tư vấn theo chỉ định. Kết quả: Trong thời gian 2 tháng từ tháng 12/2019-01/2020, có 86 đối tượng tham gia vào nghiên cứu. Bệnh nhân có tuổi trung bình là 57,93 ± 13.04, nữ giới chiếm 68,97% tổng lượt tư vấn. 95,24% bệnh nhân cải thiện kiến thức sau tư vấn, 99% bệnh nhân tự tin áp dụng các kiến thức vào cuộc sống và tất cả người bệnh đều hài lòng với chương trình tư vấn cá thể. Kết luận: Chương trình tư vấn giáo dục cá thể có được một số kết quả tích cực bước đầu như góp phần cải thiện kiến thức và sự tự tin cho người bệnh đái tháo đường trong thực hiện một số kỹ năng quan trọng khi sống chung với bệnh. Mặc dù vậy, lợi ích lâu dài và thực sự vẫn còn chưa được rõ ràng và cần phải được nghiên cứu thêm.

https://doi.org/10.47122/vjde.2020.45.3