Đánh giá hiệu quả điều trị nhân giáp lành tính bằng sóng cao tần có siêu âm dẫn đường tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương

Từ khóa

Radiofrequency
benign thyroid nodule
Ultrasound
Intervention nhân giáp lành tính
siêu âm dẫn đường
can thiệp
sóng cao tầng

Ngôn ngữ sử dụng

Cách trích dẫn

Lê, T. V. H., & Đàm, V. T. (2022). Đánh giá hiệu quả điều trị nhân giáp lành tính bằng sóng cao tần có siêu âm dẫn đường tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology, (50), 66-71. https://doi.org/10.47122/vjde.2021.50.8

Tóm tắt

Mục tiêu: Nhằm mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân bướu giáp nhân được điều trị bằng sóng cao tần (RF) và đánh giá hiệu quả can thiệp điều trị nhân giáp lành tính bằng điều trị sóng cao tần (RF) có siêu âm dẫn đường. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, can thiệp không đối chứng, đánh giá trước sau được tiến hành tại Bệnh viện Nội tiết trung ương từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018. Nghiên cứu thu thập thông tin trên 172 bệnh nhân có nhân giáp lành tính đến khám tại khoa bệnh lý tuyến giáp-Bệnh viện Nội tiết trung ương và sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng đánh giá lại trên siêu âm tuyến giáp mức độ giảm tưới máu nhân, giảm kích thước. Dữ liệu sau khi thu thập được nhập liệu bằng phần mềm Epidat 3.1 và phân tích bằng SPSS 20.0. Kết quả: Trong số 172 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, 43 đối tượng theo dõi đầy đủ sau thủ thuật ở thời điểm 1, 3 và 6 tháng. Tuổi trung bình 46,65 ± 12,02, thấp nhất 15 tuổi, cao nhất 64 tuổi; đa số là nữ giới (90,7%) Trước điều trị: thể tích nhân giáp trong nghiên cứu 5,48 ± 3,41ml (1,66 - 13,36) ml, sờ thấy nhân giáp 32,6% (14 BN), nhìn và sờ thấy là 67,4% (29 BN), tất cả bệnh nhân đều sờ thấy, có bệnh nhân sờ và nhìn thấy nhân giáp (nhân giáp lồi trước cổ); 100% bệnh nhân bình giáp trước thủ thuật. Sau điều trị bằng RFA dưới siêu âm dẫn đường cho thấy hiệu quả, an toàn, giảm đáng kể khối lượng nhân giáp mà không ảnh hưởng đến chức năng tuyến giáp. Cụ thể: kích thước nhân giảm từ 5,48 ± 3,41 ml xuống còn 3,03 ± 2,72 ml sau 1 tháng (giảm 45,15 ± 36,99%) và xuống còn 1,75 ±1,58 ml (giảm 68,52 ± 16,33%) ở thời điểm 3 tháng, còn 0,93 ± 0,99 ml (giảm 82,55 ± 11,67%). Dấu hiệu sờ thấy và nhìn thấy đều giảm, tăng tỉ lệ không sờ thấy. Kết luận: RFA là phương pháp hiệu quả, an toàn và hầu như không có biến chứng.

https://doi.org/10.47122/vjde.2021.50.8