Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal <p><strong>Giới thiệu chung</strong></p> <p>Tạp chí Nội tiết- Đái tháo đường Việt Nam đã được ra đời theo quyết định số 1740/GP-BTTT ngày 18 tháng 11 năm 2010, do Thứ trưởng Bộ Thông tin- Truyền thông Đỗ Quý Doãn ký. Tạp chí được Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ, Bộ Khoa học- Công nghệ cấp Mã số chuẩn quốc tế ISSN 1859 – 4727 theo Quyết định số 18/TTKHCN – ISSN, do Cục trưởng Tạ Bá Hưng ký ngày 11/4/2012. Tạp chí đã được Hội đồng chức danh Giáo sư Nhà nước tính điểm công trình: 0- 0,5.</p> <p>Tạp chí là nơi đăng tải tất cả các thông tin, hoạt động khoa học cập nhật của chuyên ngành Nội tiết, ĐTĐ, Rối loạn chuyển hóa trong cả nước và thế giới.</p> <p>Tạp chí cũng được công bố online tất cả các số tại địa chỉ: <a href="http://vjde.vn/">http://vjde.vn/</a></p> <p> </p> vi-VN [email protected] (GS.TS Nguyễn Hải Thủy- Trưởng ban) [email protected] (TS.BS Trần Thừa Nguyên- Thư ký) T4, 26 Th06 2024 13:43:12 +0000 OJS 3.2.1.1 http://blogs.law.harvard.edu/tech/rss 60 Khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh thoái hóa cột sống thắt lưng trên bệnh nhân đái tháo đường tại Bệnh viện 199 https://vjde.vn/journal/article/view/1311 <p><strong>Đặt vấn đề:</strong> Thoái hoá cột sống thắt lưng là bệnh mãn tính tiến triển từ từ, tăng dần gây cảm giác đau, hạn chế vận động, biến dạng cột sống mà không có biểu hiện viêm. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy đái tháo đường có thể gây ảnh hưởng đến hệ xương khớp tuy nhiên vẫn chưa có nhiều dữ liệu tại Việt Nam. <strong>Mục tiêu:</strong> 1) Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân thoái hóa cột sống trên nền đái tháo đường tại Bệnh viện 199 .2) Phân tích một số yếu tố liên quan đến tình trạng thoái hóa cột sống trên bệnh nhân điều trị đái tháo đường tại bệnh viện 199. <strong>Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu:</strong> Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên 74 bệnh nhân khám và điều trị thoái hoá cột sống thắt lưng trên nền đái tháo đường tại Bệnh viện 199 – Bộ Công an. <strong>Kết quả:</strong> Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 58,22 ± 9,13, nữ giới chiểm đa số với 59,5%. Một số triệu chứng lâm sàng phổ biến như: Đau cột sống thắt lưng (100%), Đau và co cứng cơ cạnh cột sống (95,9%), Đau tăng khi vận động, ho, thay đổi thời tiết (74,3%). Về cận lâm sàng các hình ảnh phổ biến là: Hình ảnh gai xương là hình ảnh phổ biến nhất trên phim X-Quang của các đối tượng nghiên cứu chiếm 67,6%, tiếp đến là hình ảnh đặc xương dưới sụn (51,4%), hình ảnh hẹp đĩa đệm (41,9%). Nghiên cứu cũng tìm thấy mối tương quan giữa tuổi và thời gian mắc đái tháo đường với thời gian thoái hoá cột sống và chỉ số schoberg có ý nghĩa thống kê. <strong>Kết luận:</strong> Trên đối tượng bệnh nhân thoái hoá cột sống trên nền đái tháo đường, các đặc điểm lâm sàng phổ biến nhất là: Hội chứng cột sống thắt lưng với các triệu chứng đau cột sống thắt lưng, đau co cứng cơ cạnh cột sống và đau tăng khi vận động, ho, thay đổi thời tiết; hội chứng rễ thần kinh với các triệu chứng phổ biến nhất là dấu hiệu chuông bấm, điểm đau valleix, dấu hiệu lasegue, giảm cảm giác mặt trước đùi, mặt trước ngoài cẳng chân, mu chân và dị cảm. Về cận lâm sàng, hình ảnh gai xương là hình ảnh phổ biến nhất trên phim X-Quang của các đối tượng nghiên cứu tiếp đến là hình ảnh đặc xương dưới sụn và hình ảnh hẹp đĩa đệm. Tuổi và thời gian mắc đái tháo đường có mối tương quan với thời gian thoái hoá cột sống và chỉ số schoberg có ý nghĩa thống kê.</p> Quách Hữu Trung; Trương Xuân Hùng Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1311 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Đánh giá kết quả điều trị phục hồi chức năng của bệnh nhân thoái hóa cột sống thắt lưng bệnh kèm đái tháo đường tại Bệnh viện 199 https://vjde.vn/journal/article/view/1312 <p><strong>Đặt vấn đề:</strong> Thoái hoá cột sống thắt lưng là một bệnh lý mạn tính có tổn thương cơ bản là tình trạng thoái hoá sụn khớp và đĩa đệm cột sống, trong những năm gần đây, một số nghiên cứu cho thấy đái tháo đường có liên quan đến sức bền của xương cũng như sự linh hoạt của các khớp, điều này có thể gián tiếp ảnh hưởng đến tình trạng thoái hoá cột sống thắt lưng. <strong>Mục tiêu:</strong> 1) Đánh giá kết quả điều trị phục hồi chức năng của bệnh nhân thoái hoá CSTL có tiền sử đái tháo đường tại bệnh viện 199. 2) Phân tích một số yếu tố liên quan đến hiệu quả phục hồi chức năng của bệnh nhân thoái hoá CSTL có tiền sử đái tháo đường điều trị tại bệnh viện 199. <strong>Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu:</strong> Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên 74 bệnh nhân thoái hoá CSTL có tiền sử đái tháo đường tham gia điều trị phục hồi chức năng tại Bệnh viện 199 – Bộ Công an. <strong>Kết quả:</strong> Độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 58,22 ± 9,13, trong đó nữ chiếm 59,5%. Các bệnh nhân có thời gian mắc thoái hoá cột sống trung bình là 4,86±4,03 năm và thời gian mắc đái tháo đường là 3,69±2,58. Sau điều trị điểm VAS trung bình giảm từ đau 6,73±0,98 xuống 4.54±0.92 và tầm vận động tăng từ 11,28±0,88 cm lên 12,20±0.71cm. <strong>Kết luận:</strong> nghiên cứu cho thấy việc tập phục hồi chức năng cho bệnh nhân mắc thoái hoá CSTL có tiền sử đái tháo đường giúp giảm triệu chứng đau giảm, giảm mức độ đau và tăng tầm vận động Đồng thời có sự tương quan nghịch giữa sự thay đổi tầm vận đồng với sự thay đổi mức độ đau, có sự tương quan thuận giữa tuổi, thời gian mắc thoái hoá cột sống thắt lưng và vòng eo trước khi điều trị với sự thay đổi tầm vận động có ý nghĩa thống kê.</p> Quách Hữu Trung; Vũ Đình Thanh Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1312 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Đánh giá thực trạng kiểm soát đường huyết và một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương năm 2022 https://vjde.vn/journal/article/view/1313 <p><strong>Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu:</strong> ĐTĐ đang là mối đe dọa nghiêm trọng tới sức khỏe toàn cầu, không phụ thuộc vào tình trạng kinh tế xã hội cũng như giới hạn quốc gia. Bệnh có nguy cơ phát triển các biến chứng, đe dọa đến cuộc sống, làm tăng nhu cầu chăm sóc y tế, giảm chất lượng cuộc sống và tạo áp lực lớn cho gia đình. Tại Việt Nam, bệnh Đái tháo đường đang gia tăng nhanh chóng. Bộ y tế Việt Nam đã liên tục cập nhật và đưa ra các khuyến cáo hướng dẫn chẩn đoán điều trị, kiểm soát đường huyết và các yếu tố nguy cơ tim mạch. Tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương, hàng năm điều trị cho khoảng 3.000 nhận nhân Đái tháo đường, đa số là những bệnh nhân bị bệnh nhiều năm, với nhiều biến chứng và bệnh lý kèm theo. Việc kiểm soát đường huyết và các yếu tố nguy cơ tim mạch trở nên rất khó khăn. Tuy nhiên, hiện chưa có nghiên cứu nào đánh giá được thực trạng này. Chính vì vậy chúng tôi nghiên cứu đề tài “Đánh giá thực trạng kiểm soát đường huyết và một số yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân Đái tháo đường điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương năm 2020”. Nhằm 2 mục tiêu: 1- Nhận xét đặc điểm LS, CLS BN ĐTĐ điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương năm 2022. 2- Đánh giá thực trạng kiểm soát đường huyết và một số yếu tố nguy cơ tim mạch. <strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:</strong> BN ĐTĐ được khám theo dõi điều trị tại phòng khám Nội tiết BVĐK tỉnh Hải Dương năm 2022 bằng phương pháp mô tả cắt ngang tiến cứu. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn không hoàn lại. Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho việc ước tính một tỷ lệ trong quần thể: n = Z2pq/e2. <strong>Kết quả - Bàn luận:</strong> qua Nghiên cứu 242 BN ĐTĐ, chúng tôi thu được kết quả như sau: tuổi TB là 70 ± 10, tuổi thấp nhất là 25, cao nhất là 92, nam 141 (58.3%) và nữ 101 (41.7%). Nhóm tuổi &lt; 40: 2,9%, 40-50: 8,7%, 50-60: 32,6%, ≥ 60: 55,8%. 6,2% BN phát hiện lần đầu, 16,9% mới phát hiện &lt; 5 năm, 24,0% phát hiện 5-10 năm và 52,9% phát hiện ≥ 10 năm. Đánh giá thực trạng kiểm soát đường huyết và các yếu tố nguy cơ tim mạch: 40,1% kiểm soát được đường huyết đói, 30,5% kiểm soát được Hba1c, 60,3% kiểm soát được HA, 45,9% kiểm soát được BMI, 31,3% kiểm soát được vòng bụng (nam 53,9%, nữ 23,8%), 71,9% kiểm soát được cholesterol, 38,0% kiểm soát được triglycerid, 39,7% kiểm soát được LDL, 42,6% kiểm soát được HDL (nam 44%, nữ 23,8%). <strong>Kết luận:</strong> BN mắc ĐTĐ đa số ở người trưởng thành và lớn tuổi, bệnh mạn tính kéo dài nhiều năm. Kiểm soát đường huyết, HbA1c và các yếu tố nguy cơ tim mạch đạt mục tiêu tỷ lệ chưa cao.</p> Vũ Văn Nguyên Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1313 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị viêm tuyến giáp bán cấp tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên https://vjde.vn/journal/article/view/1315 <p><strong>Mục tiêu:</strong> 1. Khảo sát một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân viêm tuyến giáp bán cấp tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. 2. Đánh giá kết quả điều trị của thuốc kháng viêm và số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị. <strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:</strong> Nghiên cứu mô tả tiến hành trên 41 bệnh nhân viêm tuyến giáp bán cấp được điều trị 1 đợt và theo dõi đến 30 ngày sau khi kết thúc điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 6/2019 - 6/2023. <strong>Kết quả:</strong> 82,9% bệnh nhân là nữ, tuổi trung bình 44,1 ± 12,4. Các triệu chứng: đau vùng tuyến giáp, vùng giảm âm trên siêu âm tuyến giáp, FT4 tăng, TSH giảm gặp ở tất cả bệnh nhân, CRP và tốc độ máu lắng (ESR) tăng gặp ở 97,6% bệnh nhân. Bệnh nhân có sốt là 43,9%, có sưng vùng tuyến giáp là 51,2%, có thể tích tuyến giáp lớn là 87,8%. 13 bệnh nhân có đau nhẹ được dùng thuốc kháng viêm không steroid (celecoxib 400 mg/24h), 28 bệnh nhân đau nặng và có vùng tuyến giáp sưng được dùng methylprednisolon liều khởi đầu 16 mg/24h. Nhóm bệnh nhân dùng methylprednisolon đạt được giảm đau nhanh hơn nhóm bệnh nhân dùng celecoxib. 65,9% bệnh nhân lui bệnh, tỷ lệ tái phát là 19,5% và suy giáp là 14,6%. Tái phát gặp nhiều hơn ở những bệnh nhân có FT4, T3, ESR thấp hơn và TSH cao hơn. Nhóm bệnh nhân được điều trị bằng methylprednisolon có tỷ lệ tái phát cao hơn nhóm bệnh nhân được điều trị bằng celecoxib. <strong>Kết luận:</strong> Bệnh nhân viêm tuyến giáp bán cấp gặp nhiều ở nữ, độ tuổi trung niên. Đau vùng tuyến giáp, vùng giảm âm trên hình ảnh siêu âm tuyến giáp, ESR, CRP tăng, FT4 tăng, TSH giảm là những triệu chứng thường gặp. Tỷ lệ lui bệnh, tái phát và suy giáp sau 1 đợt điều trị theo dõi đến 30 ngày lần lượt là 65,9%, 19,5% và 14,6%. Nguy cơ tái phát cao hơn ở những bệnh nhân có dấu ấn viêm và nhiễm độc giáp nhẹ. Bệnh nhân điều trị bằng thuốc kháng viêm steroid giảm triệu chứng nhanh hơn nhưng tỷ lệ tái phát cao hơn bệnh nhân điều trị bằng thuốc kháng viêm không steroid.</p> Nguyễn Thành Lam; Nguyễn Thị Thu Minh, Phạm Thị Trang Linh, Cam Thị Thuỳ Linh, Khổng Hoài Thương, Lý Thuý Minh Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1315 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Liên quan hormone giáp với protein niệu ở bệnh nhân hội chứng thận hư https://vjde.vn/journal/article/view/1316 <p><strong>Đặt vấn đề:</strong> Việc mất protein ra nước tiểu nhiều và kéo dài xảy ra ở bệnh nhân bị hội chứng thận hư đã làm giảm albumin huyết thanh và kéo theo nhiều thay đổi khác, trong đó có rối loạn về hormone tuyến giáp. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu mối tương quan giữa nồng độ hormone giáp với protein niệu ở bệnh nhân HCTH. <strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:</strong> Nghiên cứu theo phương pháp mô tả cắt ngang, gồm 63 bệnh nhân HCTH không suy thận và đồng ý tham gia nghiên cứu. <strong>Kết quả nghiên cứu:</strong> Kết quả nghiên cứu cho thấy nồng độ T4 và T3 huyết thanh giảm còn nồng độ TSH tăng. Nồng độ TSH huyết thanh tương quan thuận với protein niệu (r = 0,34). Nồng độ T3 và T4 huyết thanh tương quan nghịch với protein niệu, lần lượt là r = -0,4 và -0,31. <strong>Kết luận:</strong> Protein niệu trong HCTH tương quan thuận với nồng độ TSH và tương quan nghịch với T3 và T4 huyết thanh.</p> Lê Văn An; Dương Thị Ngọc Lan Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1316 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Nguy cơ té ngã và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh năm 2023 https://vjde.vn/journal/article/view/1318 <p>Té ngã là một hội chứng thường gặp ở người cao tuổi. Hàng năm có khoảng 30% - 40% người trên 65 tuổi té ngã, tỷ lệ này lên đến 50% ở những người trên 80 tuổi [2]. Chấn thương do té ngã ở người cao tuổi gây mất chức năng, mất sự tự kiểm soát, dễ gây nhiều biến chứng nặng nề dẫn đến tử vong. Mục đích của nghiên cứu này là xác định nguy cơ té ngã và phát hiện một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh trong năm 2023. Nghiên cứu được thực hiện trên 96 người cao tuổi đến khám và điều trị tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh, kết quả cho thấy tỷ lệ người cao tuổi có nguy cơ té ngã cao lên đến 36,5%. Bên cạnh đó, nghiên cứu tìm thấy mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa nguy cơ té ngã với các yếu tố: nhóm tuổi, số bệnh lý nền hiện mắc và số loại thuốc người bệnh đang sử dụng. Nguy cơ té ngã là một vấn đề sức khoẻ cần được quan tâm ở người cao tuổi không chỉ ở cộng đồng mà ngay trong môi trường bệnh viện. Các đơn vị có liên quan cần quan tâm và đưa ra các biện pháp để phòng ngừa, can thiệp cụ thể để giảm tỷ lệ té ngã ở người cao tuổi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi.</p> Nguyễn Thị Ngọc Ngoan; Phạm Thị Kim Yến, Vũ Thị Đào, Thạch Thị Mỹ Phương, Bùi Thị Kim Tuyến, Trần Thị Hồng Phương, Nguyễn Hoàng Hải Đăng Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1318 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Kết quả điều trị viêm tuyến giáp bán cấp tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương https://vjde.vn/journal/article/view/1319 <p><strong>Mục tiêu nghiên cứu:</strong> Mô tả điều trị và kết quả điều trị bệnh viêm tuyến giáp bán cấp tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương. <strong>Đối tượng và phương pháp:</strong> Nghiên cứu quan sát trên bệnh nhân viêm tuyến giáp bán cấp được điều trị một đợt và được theo dõi đến 3 tuần sau khi kết thúc điều trị. Bệnh nhân được đánh giá trước và sau điều trị về biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng của viêm tuyến giáp bán cấp, chức năng tuyến giáp, tình trạng thoái lui và tái phát bệnh.<strong> Kết quả:</strong> 37 bệnh nhân viêm tuyến giáp bán cấp được đưa vào nghiên cứu, đa số là nữ (81,1%), tuổi 26 - 71. Tất cả các bệnh nhân đều có biểu hiện điển hình của bệnh viêm tuyến giáp bán cấp với mức độ đau nặng và đều được điều trị bằng một loại glucocorticoid là methylprednisolon. Liều dùng methylprednisolon khởi đầu từ 8 đến 32mg/ngày, tỷ lệ dùng liều từ 16mg/ngày trở lên là 89,2%, giảm liều 4mg/tuần; thời gian điều trị từ 10 đến 42 ngày, 86,5% điều trị từ 28 ngày trở lên. Tỷ lệ thoái lui bệnh sau khi kết thúc điều trị là 70,3%, tỷ lệ tái phát khi giảm liều glucorticoid cho đến 3 tuần sau khi kết thúc điều trị là 21,6%. So với nhóm không tái phát, nhóm tái phát có liều khởi đầu và tổng liều methylprednisolon thấp hơn. So với nhóm dùng liều methylprednisolon khởi đầu từ ≤ 20mg/ngày, nhóm dùng liều methylprednisolon khởi đầu ≥ 24mg/ngày có thời gian dùng thuốc dài hơn, tổng liều methylprednisolon cao hơn, không còn bệnh nhân có nhiễm độc giáp sau điều trị (0% so với 35,0%, p = 0,008), tỷ lệ thoái lui bệnh cao hơn (92,9% so với 56,5%, p = 0,020), tỷ lệ tái phát thấp hơn (7,1% so với 30,4%, p = 0,102).<strong> Kết luận:</strong> Tất các bệnh nhân được điều trị bằng methylprednisolon và hầu hết được dùng liều tương đương với hướng dẫn điều trị hiện nay. Đa số bệnh nhân có thoái lui bệnh sau một đợt nhưng hơn 1/5 bệnh nhân có tái phát khi giảm liều hoặc trong vòng 3 tuần sau ngừng glucorticoid. Dùng liều glucocorticoid cao hơn có tỷ lệ thoái lui bệnh cao hơn và xu hướng giảm tỷ lệ tái phát so với liều thấp hơn.</p> Lê Quang Toàn; Nguyễn Thị Ngọc Hoa Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1319 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Nghiên cứu tình trạng thiếu vitamin D ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 và mối liên quan giữa thiếu vitamin D với chế độ thể dục, tình trạng thừa cân béo phì và tăng huyết áp https://vjde.vn/journal/article/view/1320 <p><strong>Đặt vấn đề:</strong> Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy thiếu vitamin D một tình trạng phổ biến ở bệnh nhân đái tháo đường, tỷ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 cao nhưng khác biệt giữa các vùng địa lý khác nhau, mục đích của nghiên cứu này nhằm làm rõ tỷ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân đái tháo đường và mối liên quan giữa thiếu vitamin D với thừa cân béo phì, chế độ hoạt động thể lực và bệnh lý tăng huyết áp tại 2 bệnh viện lớn ở miền Trung Việt Nam. <strong>Phương pháp:</strong> Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 103 bệnh nhân Đái tháo đường típ 2 đang khám và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Huế và Bệnh viện Trường Đại học y dược Huế, bệnh nhân tham gia nghiên cứu được đo vòng bụng, chiều cao, cân nặng, huyết áp, lấy máu tĩnh mạch đói, làm xét nghiệm 25 OH vitamin D.<strong> Kết quả:</strong> Tỷ lệ thiếu vitamin D là 52,4%, nồng độ 25 OH vitamin D (ng/ml) ở bệnh nhân thừa cân béo phì là 29.23±8.03, trên bệnh nhân không thừa cân béo phì là 32,75±8,88 (p=0.038); ở bệnh nhân béo bụng là 29,60±8,16, bệnh nhân không béo bụng là 33,94±8.90 (p=0,022), ở bệnh nhân có hoạt động thể lực là 31,11±1,07, bệnh nhân không hoạt động thể lực là 26,68±6,89 (p=0,005); tỷ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân béo bụng là 61,8%, bệnh nhân không béo bụng là 25,9% (p=0,002), ở bệnh nhân có hoạt động thể lực là 44,2%, bệnh nhân không hoạt động thể lực là 76.9% (p=0,006). <strong>Kết luận:</strong> Tỷ lệ thiếu vitamin D ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2 là 52,4%, thiếu vitamin D liên quan với tình trạng thừa cân béo phì, béo bụng và ít hoạt động thể dục ở bệnh nhân đái tháo đường.</p> Trần Hữu Thanh Tùng; Hoàng Bùi Bảo, Trần Thừa Nguyên, Phan Thị Thuỳ Dung Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1320 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Chăm sóc tâm lý xã hội cho bệnh nhân đái tháo đường https://vjde.vn/journal/article/view/1266 <p>Sống chung với bệnh đái tháo đường có thể là thách thức ở nhiều cấp độ và các vấn đề phức tạp về môi trường, xã hội, hành vi và cảm xúc, được gọi là yếu tố tâm lý xã hội ảnh hưởng đến sức khỏe của những người mắc bệnh cũng như khả năng kiểm soát bệnh đái tháo của bệnh nhân. Nhà chăm sóc sức khỏe về bệnh đái tháo đường sàng lọc các vấn đề tâm lý xã hội của bệnh nhân, can thiệp hỗ trợ bệnh nhân có các stress tiêu cực do đái tháo đường, nhà chăm sóc cần được đào tạo và giám sát bởi các chuyên gia tâm thần. Các trường hợp rối loạn tâm thần (trầm cảm, lo âu, rối loạn hành vi ăn uống và một số rối loạn khác…) cần được giới thiệu đến các chuyên gia chăm sóc sức khỏe tâm thần để được hỗ trợ điều trị. Vấn đề sức khỏe tâm lý xã hội thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường phổ biến nhất là các stress tiêu cực do đái tháo đường, bên cạnh đó các rối loạn tâm lý cần quan tâm là trầm cảm, lo âu và rối loan ăn uống. Các bệnh nhân đái tháo đường cần được sử dụng các bộ công cụ đã được chẩn hóa để sàng lọc và đánh giá các vấn đề tâm lý xã hội. Xem xét sàng lọc định kỳ đối với stress tiêu cực do đái tháo đường ở tất cả bệnh nhân. Các rối loạn tâm lý phổ biến khác cần được sàng lọc định kỳ hoặc có chỉ định dựa vào trường hợp đối với nhóm bệnh nhân nguy cơ cao.</p> Võ Thị Hà Hoa; Nguyễn Thị Khánh Linh Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1266 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Những điểm mới về các biện pháp can thiệp nhằm tăng cường chữa lành vết thương bàn chân ở bệnh nhân đái tháo đường theo IWGDF 2023 https://vjde.vn/journal/article/view/1270 <p>Các nguyên tắc quản lý vết thương, bao gồm cắt lọc và các công nghệ mới hơn liên quan đến việc thay đổi sinh lý vết thương để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chữa lành là vô cùng quan trọng khi cố gắng chữa lành vết thương bàn chân mãn tính liên quan đến đáo tháo đường. Tuy nhiên, tỷ lệ mắc bệnh và chi phí ngày càng tăng của việc quản lý vết thương bàn chân liên quan đến đái tháo đường đòi hỏi các biện pháp can thiệp để tăng cường chữa lành vết thương phải được hỗ trợ bởi bằng chứng chất về hiệu quả và hiệu quả chi phí khi sử dụng kết hợ. Qua những hướng dẫn dựa trên bằng chứng của Nhóm chuyên trách quốc tế về bàn chân đái tháo đường thế giới (IWGDF) năm 2023 về các biện pháp can thiệp chữa lành vết thương nhằm thúc đẩy quá trình lành vết loét ở bàn chân ở bệnh nhân đái tháo đường, trong nội dung bài này, chúng tôi phân tích và bàn luận thêm về các công nghệ chăm sóc vết thương qua các khuyến cáo và khả năng áp dụng trên thực tế lâm sàng, đặc biệt là tại Việt Nam.</p> Nguyễn Hải Thủy; Huỳnh Lê Thái Bão; Lâm Văn Hoàng, Nguyễn Văn Hỷ, Nguyễn Ngọc Thảo Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1270 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Cường cận giáp nguyên phát nghi u cận giáp lạc chỗ: vai trò đo iPTH trong phẫu thuật nhân một trường hợp lâm sàng https://vjde.vn/journal/article/view/1282 <p><strong><em>Đặt vấn đề: </em></strong>Cường cận giáp nguyên phát đặc trưng bởi tình trạng tăng tiết hormon cận giáp dẫn đến tăng nồng độ canxi máu bất thường gây tác động bất lợi lên nhiều cơ quan đích quan trọng. Phẫu thuật cắt bỏ u tuyến cận giáp là phương pháp điều trị tối ưu nhất cho cường tuyến cận giáp nguyên phát.<sup>1</sup> Hiện nay, hình ảnh học tuyến cận giáp đang ngày một phát triển, tuy nhiên tỷ lệ âm tính giả còn cao, vấn đề chẩn đoán và phẫu thuật còn gặp nhiều khó khăn khi đặt mục tiêu can thiệp với xâm lấn tối thiểu, bảo tồn các tuyến cận giáp có chức năng bình thường mà vẫn đảm bảo lấy được hết tổn thương ngay cả những tổn thương lạc chỗ. Do đó, xét nghiệm iPTH (intact PTH) trong phẫu thuật được xem là một phương pháp đáng tin cậy giúp các nhà phẫu thuật viên có những can thiệp xâm lấn tối thiểu, đảm bảo cắt đúng u cận giáp tăng tiết PTH thay cho phẫu thuật thám sát tất cả các tuyến cận giáp trước đây.</p> Trần Minh Triết; Trần Quang Nam, Phạm Yến Nhi Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1282 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Hội chứng đề kháng hormone tuyến giáp: nhân hai trường hợp lâm sàng hiếm gặp https://vjde.vn/journal/article/view/1314 <p><strong>Mục tiêu:</strong> Hội chứng đề kháng hormone tuyến giáp là một bệnh lý hiếm gặp đặc trưng bởi tình trạng giảm đáp ứng của mô đích với hormone tuyến giáp do đột biến gen tại thụ thể của hormone này. <strong>Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:</strong> Nghiên cứu hai trường hợp có hội chứng đề kháng hormone tuyến giáp với biểu hiện lâm sàng không điển hình kèm sự bất tương hợp giữa nồng độ FT4 và TSH. Kết quả: Trường hợp 1: đột biến dị hợp tử c.938T &gt; C (p.Met313Thr) trên exon 10 của gen THRß. Trường hợp 2: đột biến dị hợp tử c.1348C &gt; G (L450V) trên exon 11 của gen THRß. <strong>Kết luận:</strong> Tiếp cận với bệnh nhân có biểu hiện cường giáp không đặc hiệu, nồng độ TSH biến thiên không tương hợp với FT4, nên nghĩ đến hội chứng tăng tiết TSH không thích hợp trong đó có hội chứng đề kháng hormone tuyến giáp, đồng thời tầm soát cho những thành viên trực hệ trong gia đình bệnh nhân.</p> Nguyễn Trúc Dung; Trần Quang Khánh Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1314 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000 Một trường hợp lâm sàng về nhiễm độc gan do propylthiouracil ở bệnh nhân Graves’ https://vjde.vn/journal/article/view/1317 <p><strong>Đặt vấn đề:</strong> Propylthiouracil là một thuốc kháng giáp tổng hợp được sử dụng trong điều trị bệnh Graves’ nhằm ức chế quá trình tổng hợp hocmon giáp. Một trong những tác dụng phụ chính của propylthiouracil là nhiễm độc gan với biểu hiện tổn thương tế bào gan qua cơ chế tự miễn. Tuy tình trạng tổn thương gan nặng do thuốc này hiếm gặp nhưng lại có khả năng nguy hiểm đến tính mạng. <strong>Trường hợp lâm sàng:</strong> Bệnh nhân nữ 25 tuổi được chẩn đoán bệnh Graves’ không dung nạp với methimazole do biểu hiện về da và chuyển sang sử dụng propylthiouracil. Sau 3 tháng sử dụng, bệnh nhân nhập viện vì vàng da, mệt mỏi và biểu hiện suy gan cấp với bệnh não gan rõ. Bệnh nhân được chẩn đoán nhiễm độc gan do propylthiouracil. Ngay lập tức được ngưng sử dụng propylthiouracil và bắt đầu điều trị với methylprednisolone. Sau 34 ngày điều trị tình trạng lâm sàng bệnh nhân cải thiện. <strong>Kết luận:</strong> Nhiễm độc gan do propylthiouracil có thể nguy hiểm đến tính mạng bệnh nhân. Chúng ta cần cảnh giác các biểu hiện tổn thương gan do thuốc khi sử dụng propylthiouracil.</p> Lê Thanh Minh Triết; Lê Văn Chi Bản quyền (c) 2024 Vietnam Journal of Diabetes and Endocrinology https://vjde.vn/journal/article/view/1317 T4, 26 Th06 2024 00:00:00 +0000